The best Side of Quy định lắp hộp đen xe ô tô
Wiki Article
Thiết bị này được sử dụng để tiếp nhận, thu thập những thông tin về trạng thái của xe.
Thiết bị này được sử dụng để tiếp nhận, thu thập những thông tin về trạng thái của xe cho phép bạn biết được xe đang dừng hay di chuyển.
Trong trường hợp này, bạn hãy mang xe đến những đơn vị lắp đặt để yêu cầu họ nâng mức giới hạn về cảnh báo tốc độ lên đến 80 hoặc 90 km/h.
Your browser isn’t supported any longer. Update it to obtain the greatest YouTube expertise and our newest attributes. Learn more
Do hộp đen của ô tô được đấu nối trực tiếp vào với nguồn điện ở trên xe. Nên hộp đen xe hơi sẽ được gắn không quá xa so với nguồn điện. Hạn chế tối đa về độ dài dây điện từ chỗ hộp đen đến ắc-quy xe.
Địa chỉ Cài đặt/Lắp đặt/Gắn thiết bị HỘP ĐEN Ô TÔ tốt nhất tại Techglobal
Thiết bị định vị của Viettel sẽ không gây ảnh hưởng tới hoạt động và hệ thống điện của xe.
Hơn nữa, vấn đề bất cập ở chỗ chưa có bất cứ hình thức xử phạt nào dành cho những cơ sở sản xuất hộp đen kém chất lượng và việc thắt chặt thị trường cung cấp hộp đen trôi nổi là điều quá khó khăn.
Được biết, hiện nay chưa có văn bản của cơ quan thẩm quyền hướng dẫn xử phạt xe đã lắp hộp đen phải được xác định trong giấy chứng nhận kiểm định.
Hộp đen ôtô đạt chuẩn cần đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật của Quy định 31 năm 2014 của Bộ GTVT. Theo quy định này, mọi thiết bị định vị cho ô tô hợp chuẩn đảm bảo những chức năng sau:
Hộp đen sẽ kiểm soát được tất cả hoạt động của người lái cũng như phương tiện, giúp chủ sở hữu dễ dàng quản lý hơn.
– Đối với doanh nghiệp: Bản Photograph đăng ký kinh doanh & chứng minh thư người đại diện pháp luật
Hộp đen được d?c ngay thiết kế đặc biệt khá nhỏ gọn cỡ 4×10 cm, vỏ được làm bằng kim loại có khả năng chống va đập, chịu được sức va đập lên đến 3.
Tuy Nghị định đã được ban hành nhưng vẫn có những trường hợp chủ phương tiện không thực Helloện đúng hoặc cố tình không thực hiện, nên Bộ Giao thông vận tải đã ban hành thông tư về yêu cầu kỹ thuật cần đạt cụ thể của hộp đen xe tải theo QCVN 31:2014/BGTVT. Cụ thể: